Thức ăn xanh là một trong những thành phần quan trọng của ngành chăn nuôi. Ngô là một trong những thức ăn xanh dinh dưỡng cao, là nguồn thức ăn xanh sạch, dễ tiêu hóa, không chứa chất kháng dinh dưỡng. Ngô sinh khối có phạm vi thích ứng rộng, nhanh thu hoạch, năng suất sinh khối cao, canh tác đơn giản, ít tốn công lao động nên khả năng mở rộng diện tích phát triển trồng ngô sinh khối tương đối dễ dàng.

Theo Trung tâm Khuyến nông Hưng Yên, trong những năm gần đây, đời sống người dân được nâng cao, nhu cầu về các sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, an toàn khá được người tiêu dùng quan tâm. Nhiều nông dân Hưng Yên nhanh chóng chuyển hướng sang chăn nuôi bò thịt và bò sinh sản, do ngô sinh khối thu hoạch vào giai đoạn chín sáp có dưỡng chất đầy đủ nên khi bò ăn thức ăn này sẽ cho chất lượng thịt cao nhất. Để đạt được giá trị kinh tế cao, người dân đã chuyển đổi trồng ngô trên đất lúa kém hiệu quả sang trồng ngô để chăn nuôi bò thịt và bò sinh sản. Nhiều hộ dân, mặc dù không chăn nuôi bò thịt và bò sinh sản nhưng nhận thấy trồng ngô sinh khối đơn giản, ít tốn công lao động, giá trị kinh tế cao hơn so với trồng lúa vì thu hoạch ngô sinh khối vào giai đoạn ngô chín sáp có khối lượng riêng cao nhất, mỗi ha cho thu hoạch từ 45 - 60 tấn ngô sinh khối nhân với giá bán khoảng 950 đ/kg, mỗi năm trồng được 3 vụ, trừ chi phí cho thu lãi khoảng 65 triệu đồng/ha, cao hơn trồng lúa từ 2 - 2,5 lần. Tại Hưng Yên đã có một số địa phương nông dân quan tâm đến việc trồng ngô sinh khối để phục vụ chăn nuôi bò thịt và bò sinh sản tại địa phương.
Hưng Yên có hàng nghìn ha diện tích trồng ngô, tập trung chủ yếu tại các huyện Phù Cừ (300 ha), Kim Động (190 ha), Khoái Châu (200 ha), Ân Thi (120 ha), trong đó diện tích trồng ngô sinh khối chiếm khoảng 1/6 tổng diện tích trồng ngô. Mặc dù sản xuất ngô sinh khối đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế cho người trồng, nhưng việc sản xuất ngô sinh khối vẫn chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ, phục vụ chăn nuôi gia đình và chăn nuôi tại địa phương.
Trong những năm gần đây, một số hộ nông dân ở xã Tân Hưng, thành phố Hưng Yên đã bắt đầu quan tâm đến sản xuất ngô sinh khối để phục vụ chăn nuôi bò thịt và bò sinh sản. Ông Trần Văn Mý ở thôn Quyết Thắng, tại xã Tân Hưng, thành phố Hưng Yên cho biết, ông đã thử trồng nhiều loại cây trồng khác nhau, trong đó có cả trồng ngô lấy hạt. Trước đây mỗi khi đến vụ thu hoạch rất vất vả, thu hoạch, phơi, tách hạt, tốn rất nhiều công lao động, có những năm thời tiết bất thuận, ngô sinh trưởng kém, trừ chi phí sản xuất, lãi rất ít. Gần đây, số lượng bò thịt và bò sinh sản của xã tương đối phát triển, các hộ chăn nuôi bò có nhu cầu khá lớn về ngô sinh khối, ông đã chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô sinh khối, gia đình ông không còn lo lắng về vấn đề nhân công, bên cạnh đó còn rút ngắn được thời vụ, có thể bố trí tăng 1 - 2 vụ sản xuất trên năm. Nếu trồng ngô lấy hạt thời gian cho thu hoạch từ 110 - 125 ngày thì trồng ngô sinh khối chỉ sau 80 - 90 khi bắp cuối chín sữa và bắt đầu bước vào giai đoạn chín sáp là thu hoạch được. Việc rút ngắn thời vụ, không chỉ giảm nguy cơ rủi ro do điều kiện thời tiết, thiên tai mà còn có thể tăng vụ sản xuất, tăng thêm thu nhập và đặc biệt là giảm đáng kể lượng phân bón, giảm được công thu hoạch, tách hạt và bảo quản.
Bên cạnh diện tích đất bãi, đất lúa chuyển đổi sang trồng ngô sinh khối để phục vụ chăn nuôi bò, nông dân Hưng Yên đã tận dụng rất hiệu quả chân đất trồng lúa để trồng ngô sinh khối vào vụ đông, điển hình là các huyện Yên Mỹ, Khoái Châu, Kim Động, Phù Cừ, Ân Thi. Tại xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, từ nhiều năm nay, sản xuất ngô nếp đã trở thành vụ sản xuất chính của nông dân xã Đặng Lễ, người dân nơi đây gắn bó với cây ngô vụ đông do thổ nhưỡng phù hợp, ít công chăm sóc, trồng ngô vụ đông đã trở thành truyền thống, thói quen của bà con nơi đây. Gần đây, một số hộ dân chăn nuôi bò đã chuyển sang trồng ngô sinh khối và thu mua của một số hộ trồng ngô khác trong xã./.
T. Hiền